Lúc đầu Tu viện Thánh Phaolô Sài Gòn có tên gọi là La Sainte Enfance, khởi công năm 1862 và khánh thành vào năm 1864 do ông Nguyễn Trường Tộ thiết kế và chỉ huy xây dựng, có tháp cao theo kiểu kiến trúc Tây phương, ở số 4 Boulevard de la Citadelle (đường Cường Để sau này và nay là Tôn Đức Thắng, quận 1, TP. HCM).
Theo các tài liệu lịch sử truyền giáo, vào ngày 20 tháng 5 năm 1860, hai nữ tu dòng Thánh Phaolô gốc ở thành Chartres (Soeurs de Saint Paul de Chartres) từ Hong Kong đặt chân đến Sài Gòn theo lời mời của Đức Tổng Giám Mục Lefevre, vị Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Trong. Họ cùng tạm định cư tại một căn nhà nhỏ vùng chợ cũ cùng các nữ tu dòng kín (đến Sài gòn năm 1861) và đây là cộng đoàn đầu tiên của phụ nữ thiết lập tại Việt Nam sau khi dòng Mến Thánh Giá đã được thành lập vào những ngày đầu rao giảng phúc âm.
Vào tháng 9 năm 1862, mẹ bề trên dòng thánh Phaolô Benjamin khởi công xây cất nhà giám tỉnh tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ công trình này hoàn thành vào ngày 10 tháng 8 năm1864. Và trong bản thảo viết tay của mẹ Benjamin chỉ ghi lại tên vị kiến trúc sư là Thầy Học.
Lúc ấy các bà phước chẳng biết kiến trúc sư “Thầy Học” là ai. Không biết trước đây đã có tài liệu nào xác minh Thầy Học là ai chưa. Riêng cụ Vương Hồng Sển trong quyển Sài Gòn năm xưa in năm 1958 cho biết: “Tương truyền nhà lầu cao lớn nơi đây là do ông Nguyễn Trường Tộ năm xưa đứng coi xây cất”. Vậy Thầy Học hay ông Nguyễn Trường Tộ là người thiết kế, xây cất tòa nhà này? Trong tạp chí Văn Đàn (số 4-1961, Sài Gòn) ông Phạm Đình Khiêm đã công bố nhiều tài liệu trong thư khố tu viện đã chứng minh Thầy Học chính là ông Nguyễn Trường Tộ.
Trước hết, các sơ (soeur) gọi ông Nguyễn Trường Tộ là Thầy Học vì ông đã từng làm thầy dạy học cho nhà chung. Cách gọi này đã được ghi một cách chính thức thức trong một tập tài liệu viết tay tên là La Création des Établisements des Soeurs de Saint Paul de Chartres en Extrême-Orient (Ký sự về việc thành lập các cơ sở dòng Nữ tu thánh Phaolô thành Chartres tại Viễn Đông) do mẹ Benjamin, người sáng lập “Nhà Trắng” soạn thảo.
“… Được khu đất tốt đẹp như vậy lại chán cảnh tạm bợ nhiều khi còn tốn kém hơn, bà bề trên bèn quyết định xây nhà vững chắc. Bà bàn tính công việc xây cất ấy với Đức cha Gauthier và cha Croc, các vị ấy đồng ý rằng khi trở về Đàng Ngoài, sẽ để Thầy Học ở lại điều khiển các công tác”.
Trong ký sự còn xác định: “Ông là một giáo hữu Đàng Ngoài”. Điều này đã xác nhận thời gian sau khi thôi học, ông Nguyễn Trường Tộ mở trường dạy chữ Hán tại nhà, rồi được mời dạy chữ Hán trong nhà chung Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Tại đây, năm 1846 ông được giám mục người Pháp tên là Gauthier dạy học tiếng Pháp và giúp cho có một số hiểu biết về các môn khoa học thường thức của phương Tây. Cuối năm 1858, ông đi cùng Giám mục Gauthier vào Đà Nẵng tránh nạn “phân sáp” (sáp nhập hai, ba gia đình Công giáo vào trong một làng không Công giáo, chứ không cho ở tập trung như trước). Đầu năm 1859, Giám mục Gauthier đưa ông sang Hương Cảng (Hong Kong) và Pháp. Trong tập Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ do con ông là Nguyễn Trường Cửu ghi chép giai đoạn ông Nguyễn Trường Tộ đi Pháp như sau: “Rồi sang nước Pháp, ở kinh thành Ba Lê, là kinh đô, đi du lịch xem chính trị, học hành, kỹ nghệ, phong tục nước đại Pháp. Khi nghe “lặng sáp” rồi (ý nói chấm dứt tình trạng phân sáp như nói ở trên – LVN) thì Đức cha Hậu lại đem ông Tộ và các cụ về nhà chung”.
Vẫn theo ông Cửu thì chính mẹ bề trên phải thỏa thuận với Đức cha Hậu để xây cất Nhà Trắng. Câu hỏi đặt ra là tại sao mẹ Bejamin lại chọn Nguyễn Trường Tộ mà không chọn những kiến trúc sư Pháp vì chính Nguyễn Trường Tộ đã chứng minh được với mẹ bề trên và Đức cha là một người có khả năиg về kiến trúc khi về nhà chung (Xã Đoài) đã “làm lại nhà hai tầng cho Cố giữ việc ở và nhà Tràng Latin ba tầng hình chữ thập gọi là “nhà tây” cho học trò Latin ở và học cùng làm Nhà thờ Đức Bà riêng cho học trò, theo mẫu Nhà thờ Đức Bà hiện ra thành Lộ Đức (Lourdes) đẹp lắm và ở ngoài xây tường cải hoa lộng, giống các sắc hoa tây nam rực rỡ xanh tươi vui mắt, rầy (bây giờ) hư rồi. Đoạn tậu vườn làm nhà ở phía bắc nhà chung, rồi vào Gia Định làm sở nhà bà phước cho các người nhà mụ Tây ở…”.
Theo tác giả Trương Bá Cần, trong các công trình do Nguyễn Trường Tộ xây cất ở Xã Đoài, nay chỉ còn lại nhà tràng Latin (tức tiểu chủng viện) ba tầng, hình chữ thập gọi là “nhà Tây”, chứ tòa giám mục và các nhà phụ thuộc đều đã bị bom Mỹ đánh sập.
Riêng Giám mục Gauthier thường gọi Nguyễn Trường Tộ bằng danh hiệu “kiến trúc sư”, mặc dù ông Tộ chưa một ngày học qua ngành kiến trúc như trong thư gửi Hội Truyền giáo nước ngoài ở Paris (đề ngày 1-1-1870), Giám mục Gauthier viết: “… Người ta quen gọi là kiến trúc sư vì ông ta (chỉ ông Tộ) đã xây ngôi nhà ba tầng của các nữ tu Sài Gòn, một nhà nguyện và một ngọn tháp cao nổi bật…” (dẫn lại theo Nguyễn Bá Cần). Có lẽ do thiên bẩm, óc quan ѕát, thực nghiệm khi được ra nước ngoài trước kia, ông có ở Hong Kong ít lâu và trong thời gian ngắn ngủi tại thuộc địa này của người Anh, ông đã thấy được cách thức và thể loại kiến trúc của châu Âu. Trước đó, ông đã được ngợi ca là một kiến trúc sư tài năng trong quyển II, trang 731 của tạp chí La Semaine religieuse (Paris, năm 1867):
… Người Đông phương ở trong phái ủy thì có hai ông quan và một người kiến trúc sư Công giáo, có trí nhớ lạ lùng, tài năиg lỗi lạc và chính là người đã xây giáo đường của ta ở Sài Gòn”. Hai ông quan là Nguyễn Tăng Doãn và Trần Văn Đạo, còn người kiến trúc sư tài năиg lỗi lạc ấy chính là ông Nguyễn Trường Tộ. Linh mục Le Mée (thừa sai Paris) trong một bức thư đăng trên tập san Missions Catholiques năm 1876 có nói về công việc ấy như sau: “Đức Giám mục Gauthier và linh mục Croc đã đem theo một nho sĩ Bắc Kỳ, tên là Lân (tức Nguyễn Trường Tộ). Với trí thông minh hiếm có, lại được gợi ý và được thúc đẩy bởi sự nhiệt tình và tận tụy của Giám mục Gauthier, nho sĩ Bắc Kỳ này, vì tình yêu Thiên Chúa, đã nhận đứng ra đốc suất công việc. Thời đó ở Sài Gòn chưa có một công trình nào làm kiểu mẫu. Với đề án của tu viện và nhà nguyện do nữ tu Benjamin cung cấp, ông ta đã phác họa được một họa đồ phối cảnh chung và thực hiện công trình nhờ sự cộng tác của các công nhân người Việt. Chính ông đã phải vẽ sơ đồ của tháp chuông và tự mình trông nom công việc một cách rất cẩn thận và chính ông đã hoàn thành nhiều phần khác của công trình. Mỗi ngày người ta thấy ông có mặt ở công trường và để ý tới từng chi tiết. Phải thú nhận là nếu không có ông thì không thể thực hiện được một công trình như vậy vào một thời điểm mà ở Sài Gòn chưa có thợ cũng như chưa có nhà thầu…”.
Lối kiến trúc của ông Nguyễn Trường Tộ theo đường cong vòm khi ấy tuyệt vời. Bản vẽ kiến trúc do ông Nguyễn Trường Tộ thiết kế có các khu nhà theo hình chữ U, gồm ba khối nhà: cô nhi viện, nhà nữ tu ở và khu nhà nguyện. Khu nhà nguyện có thiết kế đặc biệt, nhìn từ trên cao xuống rất giống cây Thánh giá, bên trong có thêm nhiều cột đỡ vững chãi, không gian xung quanh là những bức họa, mái vòm uốn lượn và đặc biệt là lúc bấy giờ cây tháp vươn cao nhất Sài Gòn mà thuyền bè ngược xuôi trên sông đi ngang qua đều thấy, chứng tỏ tài năng của ông Nguyễn Trường Tộ quá xuất sắc. Rất tiếc năm 1940, do máy bay của quân Đồng minh ném bom làm sụp đổ một góc nhỏ của tòa nhà buộc phải sửa chữa lại, cây tháp cao nhất Sài Gòn khi ấy cũng bị bom “chém” cụt mất.
Từ năm 1924 tên gọi “Sainte Enfance” của tu viện được đổi thành “Saint Paul”, tu viện Sainte Enfance của các sơ dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam.
Nhờ sự thông minh, nhất là tài trí bẩm sinh về kiến trúc, lại được học hành bài bản ở nước ngoài nên Nguyễn Trường Tộ đã tự tay phác thảo, sáng tạo thêm những đường nét mái vòm cong, uốn lượn để công trình tòa nhà dòng thánh Phaolô mang đậm nét văn hóa Việt.
Đến nay, tu viện Thánh Phaolô đã gần 160 tuổi, là một trong những công trình sớm nhất ở Sài Gòn và ai cũng phải trầm trồ, kính phục ông Nguyễn Trường Tộ, một nhà chính trị, kinh tế và óc duy tân, lại có tài kiến trúc đến như thế. Đây cũng là công trình được xem là kiến trúc kiên cố đầu tiên do một kiến trúc sư người Việt thiết kế.
Tu viện Thánh Phaolô là một dấu ấn và cũng là niềm tự hào của người dân Sài Gòn trong suốt hàng thế kỷ qua.
Bài: Sưu tầm & biên tập